LUẬT SỐ 90/2025/QH15: ĐIỀU CHỈNH HÀNG LOẠT VĂN BẢN LUẬT THÚC ĐẨY THU HÚT ĐẦU TƯ VÀ TẠO THUẬN LỢI CHO CÁC DOANH NGHIỆP

LUẬT SỐ 90/2025/QH15: ĐIỀU CHỈNH HÀNG LOẠT VĂN BẢN LUẬT THÚC ĐẨY THU HÚT ĐẦU TƯ VÀ TẠO THUẬN LỢI CHO CÁC DOANH NGHIỆP

2025-07-12 12:35:28 284

Ngày 25/06/2025, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đấu thầu, Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật hải quan, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật đầu tư, Luật đầu tư công, Luật quản lý; sử dụng tài sản công (“Luật số 90”) với nhiều nội dung điều chỉnh nhằm tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

1. Sửa đổi, bổ sung Luật Đấu thầu – Doanh nghiệp Nhà nước được chủ động lựa chọn nhà thầu đối với những gói thầu không sử dụng vốn ngân sách nhà nước:

1.1. Doanh nghiệp nhà nước không phải áp dụng Luật Đấu thầu trong mọi trường hợp

Luật số 90 sửa đổi Luật Đấu thầu trên nguyên tắc trao quyền cho doanh nghiệp nhà nước được tự quyết định hoạt động mua sắm, đấu thầu; theo đó, chỉ những hoạt động lựa chọn nhà thầu có sử dụng vốn ngân sách nhà nước mới phải thực hiện theo quy định của Luật Đấu thầu; còn lại, những hoạt động lựa chọn nhà thầu không sử dụng vốn ngân sách nhà nước thì doanh nghiệp nhà nước được quyền tự quyết định trên cơ sở bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả và trách nhiệm giải trình. 

Như vậy, Luật số 90 đã “vạch ranh giới” rõ ràng giữa việc sử dụng nguồn vốn ngân sách theo Luật Ngân sách nhà nước với việc sử dụng vốn do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, vốn từ lợi nhuận giữ lại của doanh nghiệp nhà nước theo Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp. Về bản chất, nguyên tắc này không chỉ áp dụng với doanh nghiệp nhà nước mà cũng áp dụng với các đơn vị sự nghiệp công lập; điều này tạo sự chủ động cho các doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập trong việc sử dụng nguồn vốn của mình, đồng thời gián tiếp nâng cao trách nhiệm quản lý cho các đơn vị này.  

1.2. Điều chỉnh các hình thức lựa chọn nhà thầu

Luật số 90 điều chỉnh các hình thức lựa chọn nhà thầu trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật Đấu thầu 2023 nhưng có sự phân chia thành các nhóm hình thức lựa chọn nhà thầu phụ thuộc vào tính chất của hình thức đó (chỉ định thầu, đấu thầu và hình thức khác). Ngoài ra, Luật số 90 cũng bổ sung thêm một hình thức lựa chọn nhà thầu mới là đặt hàng. Theo đó, Đặt hàng là hình thức giao trực tiếp cho tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân thực hiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ thuộc các trường hợp sau đây:

  • Sản phẩm, dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công;
  • Hàng hóa, dịch vụ thuộc các lĩnh vực chiến lược; các dự án, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trọng điểm, quan trọng quốc gia, công nghiệp nền tảng, công nghiệp mũi nhọn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, giao thông xanh, quốc phòng, an ninh, đào tạo nhân lực gắn với chuyển giao công nghệ; công nghệ số trọng điểm;
  • Sản phẩm, hàng hóa từ kết quả của nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đặc biệt theo pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
  • Hàng hóa, dịch vụ được đặt hàng theo quy định của pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực.

1.3. Thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Luật số 90 bổ sung, điều chỉnh một số quy định nhằm thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, bao gồm:

  • bổ sung quy định cho phép tổ chức, cá nhân chủ trì được tự quyết định việc lựa chọn nhà thầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với phần kinh phí khoán chi của nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo sử dụng toàn bộ hoặc một phần ngân sách nhà nước.
  • mở rộng đối tượng ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư là cá nhân khởi nghiệp sáng tạo (trước đây chỉ áp dụng với doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo) và một số đối tượng liên quan như tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo được cơ quan có thẩm quyền công nhận; trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu và phát triển....
  • doanh nghiệp khoa học và công nghệ (bao gồm cả doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm đổi mới sáng tạo, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo theo quy định của pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao theo quy định của pháp luật) không phải chứng minh khả năng thu xếp vốn chủ sở hữu khi tham gia đấu thầu.

1.4. Điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến hoạt động đấu thầu

Luật số 90 cũng điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến hoạt động đấu thầu như sau:

a, Chủ đầu tư không còn tư cách là bên mời thầu

Luật số 90 đã thu hẹp phạm vi áp dụng so với Luật Đấu thầu 2023 theo hướng chỉ còn hai trường hợp bắt buộc áp dụng Luật đấu thầu là (+) hoạt động lựa chọn nhà thầu có sử dụng vốn ngân sách nhà nước và (++) hoạt động lựa chọn nhà đầu tư dự án đầu tư. Đối với hoạt động lựa chọn nhà thầu có sử dụng vốn ngân sách nhà nước, yêu cầu bắt buộc là bên mời thầu phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định (không phải là chủ đầu tư quyết định) để đảm bảo nguyên tắc khách quan khi sử dụng ngân sách nhà nước; do vậy, về bản chất, trong cả hai trường hợp, chủ đầu tư đều không có tư cách là bên mời thầu. Việc quy định theo hướng bỏ tư cách chủ đầu tư của bên mời thầu là phù hợp với phạm vi áp dụng của Luật số 90.

b, Cho phép áp dụng chỉ định nhà đầu tư.

Theo đó, Chỉ định nhà đầu tư được áp dụng đối với dự án đầu tư kinh doanh cần thực hiện trong các trường hợp: dự án do nhà đầu tư đề xuất mà nhà đầu tư có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ chiến lược; dự án cần tiếp tục lựa chọn nhà đầu tư trước đó đã triển khai hạ tầng số, nền tảng số nhằm bảo đảm tương thích, đồng bộ, kết nối về kỹ thuật; dự án đầu tư kinh doanh cần đẩy nhanh tiến độ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm lợi ích quốc gia do nhà đầu tư đề xuất theo quy định.

c, Chủ đầu tư được quyền xem xét, quyết định trong trường hợp sửa đổi hợp đồng làm thay đổi thời gian thực hiện hợp đồng nhưng không vượt thời gian thực hiện dự án hoặc vượt giá gói thầu (bao gồm dự phòng) được duyệt nhưng không làm vượt tổng mức đầu tư, dự toán mua sắm, thay vì phải xin ý kiến và đạt được chấp thuận từ người có thẩm quyền như quy định trước đây.

2. Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư: đơn giản hóa quy trình thực hiện dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (“PPP”)

Luật số 90 quy định theo hướng đơn giản hóa quy trình thực hiện dự án PPP như sau:

+ chỉ những dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ mới phải lập và thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi; đối với các dự án còn lại, Luật số 90 không yêu cầu phải lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi (báo cáo nghiên cứu tiền khả thi có thể được thay thế bằng báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư hoặc có thể lập báo cáo nghiên cứu khả thi ngay mà không cần bất kỳ báo cáo mang tính chủ trương nào khác).

+ không phải thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án PPP không sử dụng vốn nhà nước, Dự án PPP khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo quy định, Dự án PPP ứng dụng công nghệ cao, Dự án áp dụng loại hợp đồng O&M,  Dự án áp dụng loại hợp đồng BT thanh toán bằng quỹ đất.

+ cho phép chỉ định nhà đầu tư để triển khai các dự án đặc thù gồm: dự án do nhà đầu tư đề xuất mà nhà đầu tư có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ chiến lược; dự án cần tiếp tục lựa chọn nhà đầu tư trước đó đã triển khai hạ tầng số, nền tảng số nhằm bảo đảm tương thích, đồng bộ, kết nối về kỹ thuật; dự án cần đẩy nhanh tiến độ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm lợi ích quốc gia do nhà đầu tư đề xuất và được cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án.

d. Nhà đầu tư không bắt buộc phải thành lập doanh nghiệp dự án PPP.

- Trước đây, chủ đầu tư bắt buộc phải thành lập doanh nghiệp dự án PPP để ký kết và thực hiện hợp đồng PPP; tuy nhiên, Luật số 90 hiện nay cho phép chủ đầu tư không bắt buộc phải thành lập doanh nghiệp dự án PPP nhưng phải tổ chức quản lý và hạch toán độc lập doanh thu, chi phí của dự án PPP với hoạt động kinh doanh khác của nhà đầu tư trong một số trường hợp gồm:

  • Nhà đầu tư là doanh nghiệp nhà nước.
  • Dự án áp dụng loại hợp đồng BT; dự án PPP khoa học, công nghệ.
  • Dự án có tổng mức đầu tư tương đương dự án nhóm B, nhóm C theo quy định của pháp luật về đầu tư công.

- Cho phép doanh nghiệp dự án PPP được kinh doanh ngành, nghề ngoài phạm vi hợp đồng dự án PPP (trước đây doanh nghiệp dự án PPP chỉ được thành lập với mục đích duy nhất là ký kết và thực hiện dự án PPP) khi đáp ứng các điều kiện gồm: được bên cho vay chấp thuận; báo cáo quản lý và hạch toán độc lập doanh thu, chi phí của dự án PPP với hoạt động kinh doanh khác trong doanh nghiệp dự án PPP; hoạt động kinh doanh khác không làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP tại hợp đồng dự án PPP.

e. Bổ sung một trường hợp chấm dứt hợp đồng dự án PPP trước thời hạn là trường hợp sản phẩm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo do doanh nghiệp dự án PPP tạo ra đã thực hiện cơ chế chia sẻ phần giảm doanh thu trong 03 năm đầu sau thời điểm vận hành, kinh doanh nhưng doanh thu thực tế vẫn thấp hơn 50% doanh thu dự kiến trong phương án tài chính.

f. Nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp cho nhà đầu tư khác; các thành viên trong nhà đầu tư liên danh có quyền chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp cho nhau hoặc cho nhà đầu tư khác ngoài liên danh khi dự án PPP chưa hoàn thành xây dựng công trình.

g. Bổ sung, điều chỉnh cơ chế chia sẻ giảm doanh thu

+ Theo đó, khi doanh thu thực tế đạt thấp hơn doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP với tỷ lệ trong khung từ dưới 90% đến dưới 75%, Nhà nước chia sẻ với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP 50% phần chênh lệch giữa doanh thu trong phương án tài chính và doanh thu thực tế. Việc chia sẻ phần giảm doanh thu được áp dụng khi đáp ứng các điều kiện sau đây:

  • Dự án áp dụng loại hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BOO;
  • Quy hoạch, chính sách, pháp luật có liên quan thay đổi làm giảm doanh thu;
  • Có phương án tài chính điều chỉnh theo mức giá, phí sản phẩm, dịch vụ công cao nhất của khung giá hoặc điều chỉnh thời hạn hợp đồng dự án PPP đến 50 năm nhưng chưa bảo đảm mức doanh thu tối thiểu;
  • Đã được Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán phần giảm doanh thu.

Đồng thời, việc chia sẻ giảm doanh thu với các điều kiện trên cũng được áp dụng với dự án PPP khoa học, công nghệ, trong 03 năm đầu sau thời điểm vận hành, kinh doanh và cho phép áp dụng mức chia sẻ 100% phần chênh lệch giảm giữa doanh thu thực tế và doanh thu trong phương án tài chính khi doanh thu thực tế thấp hơn doanh thu trong phương án tài chính.

+ Đối với dự án BOT trong lĩnh vực đường bộ có hợp đồng được ký kết trước ngày 01 tháng 01 năm 2021, Nhà nước chia sẻ với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP theo tỷ lệ phần chênh lệch giữa doanh thu trong phương án tài chính và doanh thu thực tế. Việc chia sẻ phần giảm doanh thu được áp dụng khi đáp ứng các điều kiện sau đây:

  • Dự án bị ảnh hưởng do thay đổi quy hoạch, chính sách, pháp luật có liên quan của Nhà nước, sau khi áp dụng các biện pháp điều chỉnh theo quy định của pháp luật và tính toán điều chỉnh mức phí sử dụng dịch vụ đường bộ, thời hạn hợp đồng dự án nhưng doanh thu thực tế của 03 năm gần nhất đạt dưới 75% mức doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP và phương án tài chính vẫn không bảo đảm hiệu quả;
  • Hợp đồng dự án chưa quy định nội dung áp dụng cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu;
  • Cơ quan ký kết hợp đồng đã đàm phán với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án và bên cho vay về tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, lãi suất vốn vay, phương án trả nợ trong phương án tài chính. Trường hợp phương án tài chính được điều chỉnh không bảo đảm tính khả thi thì không áp dụng cơ chế chia sẻ phần giảm doanh thu tại Điều này;
  • Đã được Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán phần giảm doanh thu và số tiền Nhà nước chia sẻ phần giảm doanh thu.
  • Việc chia sẻ phần giảm doanh thu quy định tại khoản 2 Điều này được thực hiện một lần và không phải thực hiện thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư, điều chỉnh dự án.

Như vậy, về cơ bản Luật số 90 tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp khi tham gia vào dự án PPP.

3. Luật Hải quan: áp dụng cơ chế ưu tiên cho doanh nghiệp công nghệ cao

Luật số 90 điều chỉnh theo hướng các doanh nghiệp công nghệ cao (bao gồm các doanh nghiệp tương tự như doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao; doanh nghiệp thực hiện dự án công nghệ chiến lược; doanh nghiệp thực hiện dự án sản xuất sản phẩm công nghệ số trọng điểm,...) được áp dụng chế độ ưu tiên về hải quan nếu đáp ứng các điều kiện về thực hiện thủ tục hải quan điện tử, thuế điện tử,...; thanh qua ngân hàng; có hệ thống kiểm soát nội bộ; chấp hành tốt quy định của pháp luật về kế toán, kiểm toán mà không cần đáp ứng các điều kiện về tuân thủ pháp luật về hải quan, pháp luật về thuế trong 02 năm liên tục và kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu hàng năm đạt mức quy định.

4. Luật Thuế giá trị gia tăng: hàng hóa xuất khẩu tại chỗ được áp dụng mức thuế suất 0%

Luật số 90 bổ sung một nhóm hàng hóa được áp dụng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng 0% là hàng hóa xuất khẩu tại chỗ. Điều này góp phần giúp doanh nghiệp tăng cường xuất khẩu hàng hóa, thúc đẩy kinh tế.

5. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ số

Theo đó, hàng hóa nhập khẩu để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ số, bao gồm:

  • Hàng hóa nhập khẩu là máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư chuyên dùng, tài liệu, sách báo khoa học chuyên dùng sử dụng trực tiếp cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ số;
  • Hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ số theo quy định của pháp luật.
  • Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất, nghiên cứu của tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp công nghệ cao và doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao;
  • Hàng hóa nhập khẩu là nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất sản phẩm công nghệ số; nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm của trung tâm nghiên cứu và phát triển.

6. Luật Đầu tư: tăng thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

a. Một số chính sách ưu tiên đặc thù về đầu tư

- Luật số 90 bổ sung một số nhóm dự án được áp dụng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt gồm:

  • Dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ số trọng điểm, dự án nghiên cứu và phát triển, thiết kế, sản xuất, đóng gói, kiểm thử chip bán dẫn, dự án xây dựng trung tâm dữ liệu trí tuệ nhân tạo theo pháp luật về công nghiệp công nghệ số đáp ứng quy mô tổng vốn đầu tư từ 6.000 tỷ đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 6.000 tỷ đồng trong thời hạn 05 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư.
  • Đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
  • Đầu tư phát triển và vận hành, quản lý công trình kết cấu hạ tầng; phát triển vận tải hành khách công cộng tại các đô thị; kinh doanh vận tải đường sắt; công nghiệp đường sắt và đào tạo nguồn nhân lực đường sắt.

Đồng thời, Luật số 90 cũng bổ sung một địa bàn ưu đãi đầu tư mới là khu công nghệ số tập trung.

- Nhà đầu tư nước ngoài được thành lập tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư trước khi thực hiện thủ tục cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án đầu tư thành lập mới trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu và phát triển, dự án đầu tư xây dựng hạ tầng trung tâm dữ liệu lớn, hạ tầng điện toán đám mây, hạ tầng di động từ 5G trở lên và hạ tầng số khác trong lĩnh vực công nghệ chiến lược theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghệ chiến lược, sản xuất sản phẩm công nghệ chiến lược.

b. Tăng thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

Luật số 90 điều chỉnh theo hướng Thủ tướng Chính phủ chỉ còn thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư với các dự án đầu tư có kinh doanh đặt cược, ca-si-nô (casino) và dự án nhà máy điện hạt nhân (thẩm quyền chấp thuận đối với dự án này trước đây thuộc về Quốc hội); các dự án đầu tư còn lại thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ trước đây (như Dự án đầu tư có yêu cầu di dân tái định cư từ 10.000 người trở lên ở miền núi, từ 20.000 người trở lên ở vùng khác; Dự án đầu tư xây dựng mới: cảng hàng không, sân bay; đường cất hạ cánh của cảng hàng không, sân bay; nhà ga hành khách của cảng hàng không quốc tế; nhà ga hàng hóa của cảng hàng không, sân bay có công suất từ 01 triệu tấn/năm trở lên...) đều được đưa về thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Lưu ý riêng rằng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở (để bán, cho thuê, cho thuê mua), khu đô thị không phân biệt quy mô sử dụng đất hoặc quy mô dân số.

Luật số 90 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2025./.

Bình luận:

Từ khóa: