NGHỊ ĐỊNH 219/2025/NĐ-CP: TÍCH HỢP THỦ TỤC BÁO CÁO GIẢI TRÌNH NHU CẦU SỬ DỤNG NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI VỚI ĐỀ NGHỊ CẤP GIẤY PHÉP LAO ĐỘNG

NGHỊ ĐỊNH 219/2025/NĐ-CP: TÍCH HỢP THỦ TỤC BÁO CÁO GIẢI TRÌNH NHU CẦU SỬ DỤNG NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI VỚI ĐỀ NGHỊ CẤP GIẤY PHÉP LAO ĐỘNG

2025-08-17 10:05:33 150

Ngày 07/8/2025, Chính phủ ban hành Nghị định 219/2025/NĐ-CP quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam (“Nghị định 219”). Nghị định có nhiều thay đổi mới về cấp giấy phép cho lao động nước ngoài tại Việt Nam so với Nghị định số 152/2020/NĐ-CP và Nghị định số 70/2023/NĐ-CP trước đó.

Dưới đây, ATA xin phép gửi tới Quý Khách hàng các điểm cập nhật mới đáng lưu ý trong Nghị định 219:

1. Tích hợp thủ tục báo cáo giải trình nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài với đề nghị cấp giấy phép lao động

Trước đây, việc chấp thuận nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài và xét cấp giấy phép lao động được thực hiện theo hai quy trình độc lập. Doanh nghiệp phải hoàn tất thủ tục giải trình, xin chấp thuận nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài trước, sau đó mới được tiến hành thủ tục xin cấp giấy phép lao động. Theo quy định tại Nghị định 219, thành phần hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động đã tích hợp thủ tục báo cáo giải trình nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài với đề nghị cấp giấy phép lao động, thành một tài liệu duy nhất. Việc hợp nhất hai thủ tục này không chỉ giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, giảm chi phí hành chính mà còn chủ động hơn không việc triển khai các kế hoạch sản xuất, kinh doanh.

Hiện nay, thủ tục nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động có thể thực hiện trực tuyến qua Cổng Dịch vụ công quốc gia.

Ngoài ra, Nghị định 219 cũng điều chỉnh thời gian xem xét nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài và giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài, cụ thể:

(i)       Trường hợp chấp thuận nhu cầu và thực hiện cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài: Trong thời hạn 10 ngày làm việc (kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ).

(ii)      Trường hợp không chấp thuận nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài hoặc không cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài: Trong thời hạn 3 ngày làm việc (kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ).

2. Mở rộng trường hợp người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động

So với quy định trước đây, Nghị định 219 đã bổ sung, làm rõ thêm trường hợp người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động, bao gồm:

(i)       Nhóm lao động nước ngoài được các bộ, cơ quan ngang bộ hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xác nhận vào Việt Nam làm việc trong các lĩnh vực: tài chính, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, các lĩnh vực ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội.

(ii)      Người lao động nước ngoài là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia, lao động kỹ thuật:

-         Vào Việt Nam làm việc có tổng thời gian dưới 90 ngày trong 01 năm, tính từ ngày 01/01 đến 31/12 của năm; hoặc

-         Di chuyển có thời hạn trong nội bộ doanh nghiệp nước ngoài đã thành lập hiện diện thương mại trên lãnh thổ Việt Nam.

          Ngoài ra, các trường hợp thuộc diện miễn giấy phép khác được giữ nguyên, đáp ứng yêu cầu thu hút nhân lực chất lượng cao trong các ngành được ưu tiên phát triển.

3. Cụ thể hoá trường hợp bị thu hồi giấy phép lao động, giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động

3.1.     Trường hợp bị thu hồi giấy phép lao động

Quy định về trường hợp người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam bị thu hồi giấy phép lao động đã có sự thay đổi về phạm vi và mức độ vi phạm. Theo quy định cũ, người lao động nước ngoài không thực hiện đúng pháp luật Việt Nam nếu làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì áp dụng thu hồi giấy phép lao động. Hiện nay, biện pháp này chỉ áp dụng đối với trường hợp người lao động nước ngoài trong quá trình làm việc tại Việt Nam bị khởi tố hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Có thể thấy, mức độ vi phạm nghiêm trọng hơn và có hậu quả pháp lý rõ ràng. Như vậy, quy định mới thu hẹp phạm vi áp dụng nhưng đồng thời nâng cao mức độ nghiêm trọng của hành vi bị điều chỉnh.

3.2.     Trường hợp bị thu hồi giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động

          Nghị định 219 bổ sung quy định về các trường hợp bị thu hồi giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động, cụ thể bao gồm:

(i)       Làm việc không đúng với nội dung trong giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động đã được cấp.

(ii)      Có văn bản thông báo của người sử dụng lao động tại nước ngoài về việc không tiếp tục làm việc tại Việt Nam.

(iii)     Người sử dụng lao động tại Việt Nam hoặc nước ngoài chấm dứt hoạt động.

(iv)     Người sử dụng lao động hoặc người lao động nước ngoài không thực hiện đúng quy định về cấp, cấp lại, gia hạn giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động quy định tại Nghị định này.

(v)      Người lao động nước ngoài trong quá trình làm việc ở Việt Nam không thực hiện đúng quy định của pháp luật Việt Nam mà bị khởi tố, truy cứu trách nhiệm hình sự.

4. Bổ sung về thời hạn giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động

          Theo quy định hiện hành, thời hạn giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động căn cứ theo thời hạn trong các văn bản, hợp đồng giữa các bên, nhưng không quá 02 năm.

Nghị định 219 có hiệu lực thi hành từ ngày 07/8/2025.

Trường hợp giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động và giấy phép lao động đã được cấp, cấp lại, gia hạn theo quy định cũ được tiếp tục sử dụng đến khi hết thời hạn và được cấp, cấp lại, gia hạn theo quy định mới. Trường hợp người sử dụng lao động đã nộp hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép lao động và giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động theo quy định cũ trước ngày 07/8/2025 sẽ tiếp tục được xem xét, giải quyết theo quy định cũ.

Bình luận: