NGHỊ QUYẾT SỐ 66-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VÀ NGHỊ QUYẾT 197/2025/QH15 CỦA QUỐC HỘI: TỪ ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC ĐẾN CƠ CHẾ ĐẶC BIỆT NHẰM CẢI CÁCH CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ THỰC THI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

NGHỊ QUYẾT SỐ 66-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VÀ NGHỊ QUYẾT 197/2025/QH15 CỦA QUỐC HỘI: TỪ ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC ĐẾN CƠ CHẾ ĐẶC BIỆT NHẰM CẢI CÁCH CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ THỰC THI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

2025-05-23 17:58:16 295

Ngày 30/4/2025 Bộ Chính trị - Ban chấp hành trung ương đã ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (“Nghị quyết 66”) đánh dấu một bước ngoặt lớn trong công cuộc cải cách thể chế pháp luật. Nghị quyết 66 xác lập tầm nhìn chiến lược: xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam chất lượng cao, hiện đại, hội nhập quốc tế, đồng thời phù hợp thực tiễn phát triển đất nước. Trên tinh thần đó, Nghị quyết 197/2025/QH15 quy định về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật (Nghị quyết 197”) đã cụ thể hóa tầm nhìn đó qua các cơ chế đặc thù chưa từng có trong lĩnh vực lập pháp, thể hiện sự chuyển hóa nhanh chóng từ tư duy lãnh đạo sang thiết kế thể chế và tổ chức thực hiện hiệu quả.

Trong bài viết tuần này, ATA Legal Service sẽ tóm tắt và tập chung đi sâu vào phân tích những điểm mới quan trọng dựa trên tinh thần của các nghị quyết.

1. Những nội dung chính tại Nghị quyết 66:

Nghị quyết 66 đề ra các mục tiêu của Đảng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật của Việt Nam gồm:

+ Xây dựng hệ thống pháp luật có chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến và phù hợp với thực tiễn đất nước;

+ Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi, thông thoáng, minh bạch, an toàn, chi phí tuân thủ thấp.

Trên cơ sở các mục tiêu chung nêu trên, Đảng đề ra các giải pháp triển khai gồm:

+ Nhấn mạnh vai trò và tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, chịu trách nhiệm chính về chất lượng chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của bộ, ngành mình. Theo đó, các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan của Quốc hội cơ cấu ít nhất một lãnh đạo có chuyên môn pháp luật;

+  Coi trọng, chủ động nghiên cứu chiến lược, chính sách từ sớm, từ thực tiễn, từ kinh nghiệm của thế giới, góp phần tăng cường tính dự báo và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật;

+ Chú trọng công tác giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật và truyền thông về chính sách, pháp luật;

+ Thực hiện chính sách đặc thù, vượt trội, áp dụng chế độ thù lao, thuê khoán tương xứng để thu hút, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia các nhiệm vụ, hoạt động xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật;

+ Ưu tiên nguồn lực xây dựng, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu lớn, ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo phục vụ công tác xây dựng và tổ chức thi hành PL;

+ Thực hiện cơ chế tài chính đặc biệt cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật, Bảo đảm chi cho công tác xây dựng pháp luật không thấp hơn 0,5% tổng chi ngân sách hằng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển.

Như vậy, trong số các giải pháp trọng yếu để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chất lượng, hiện đại, Nghị quyết 66 đã chính thức “mở đường” cho việc áp dụng những cơ chế, chính sách đặc biệt, đặc thù, vượt trội trong hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật – hoạt động tiên phong trên con đường biến định hướng, chính sách thành quy định có giá trị thực thi cụ thể.

2. Nghị quyết 197 – thể chế hoá các chính sách đặc biệt trong xây dựng và thực thi pháp luật

2.1. Cơ chế tài chính đặc biệt – tháo gỡ điểm nghẽn “thiếu tiền làm luật”

Lần đầu tiên, một nghị quyết của Quốc hội quy định rõ ràng rằng chi cho công tác xây dựng pháp luật không thấp hơn 0,5% tổng chi ngân sách hằng năm và phải tăng dần theo yêu cầu phát triển.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 197 còn thiết lập cơ chế tài chính đặc biệt thông qua việc thành lập Quỹ hỗ trợ xây dựng chính sách, pháp luật – một quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, trực thuộc Bộ Tư pháp. Quỹ này cho phép huy động thêm nguồn lực xã hội hóa và khoán chi linh hoạt theo giá thị trường, tạo điều kiện chủ động tài chính cho các nhiệm vụ đổi mới pháp luật mà ngân sách thường xuyên không đáp ứng được. Đây là bước đột phá tháo gỡ điểm nghẽn “thiếu tiền làm luật”, khẳng định pháp luật là lĩnh vực đầu tư chiến lược, chứ không chỉ là chi hành chính đơn thuần.

2.2. Cơ chế đặc biệt thu hút con người và đầu tư hạ tầng công nghệ phục vụ công tác xây dựng và thực thi pháp luật

Nghị quyết 197 cụ thể hóa định hướng “lấy con người làm trung tâm” bằng loạt chính sách đột phá nhằm thu hút, giữ chân nhân lực chất lượng cao trong công tác xây dựng pháp luật, như hỗ trợ 100% lương theo hệ số hiện hưởng, không dùng khoản hỗ trợ làm căn cứ để tính đóng, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và miễn thuế thu nhập cá nhân, các nghĩa vụ tài chính khác đối với khoản thu từ công tác xây dựng pháp luật.

Cùng với đó, Nghị quyết 197 cho phép áp dụng cơ chế đặc biệt thu hút, xét tuyển, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm thực tiễn về pháp luật quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế; đưa chuyên gia Việt Nam vào làm việc tại bộ phận pháp lý của tổ chức quốc tế, tổ chức pháp lý quốc tế, cơ quan tài phán quốc tế.

Song song đầu tư vào con người, Nghị quyết cũng thúc đẩy phát triển, ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong xây dựng và thi hành pháp luật. Cụ thể, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn về pháp luật; ứng dụng AI và trợ lý ảo để nâng cao hiệu quả quản lý, kiểm tra văn bản; phát triển hạ tầng số, nền tảng công nghệ phục vụ trực tiếp hoạt động lập pháp. Sản phẩm công nghệ trong nước phục vụ hoạt động xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật được ưu tiên đầu tư bằng ngân sách, bảo đảm hiện đại hóa công tác pháp lý một cách đồng bộ và bền vững.

2.3. Bảo vệ quyền lợi của tổ chức, cá nhân tham gia công tác xây dựng và thực thi pháp luật trước rủi ro pháp lý

Nghị quyết 66 nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm cá nhân đứng đầu và các tổ chức, cá nhân liên quan trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật. Tuy nhiên, để tạo hành lang pháp lý an toàn cho đổi mới, sáng tạo và giải toả tâm lý e ngại, sợ trách nhiệm, Nghị quyết 197 thiết lập cơ chế miễn trừ rủi ro pháp lý cho cán bộ thực hiện nhiệm vụ xây dựng và thực thi pháp luật. Cụ thể:

+ Người đứng đầu cơ quan lập pháp, thực thi pháp luật được quyền chủ động quyết định nội dung chi, thay đổi nội dung chi đúng, đủ, phù hợp và công khai, minh bạch theo quy định.

+ Người đứng đầu cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ có quyền chủ động phân bổ và thay đổi nội dung chi, phù hợp với mức độ quan trọng, phức tạp của từng nhiệm vụ.

+ Tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ được miễn trách nhiệm dân sự và không phải hoàn trả kinh phí đã sử dụng từ ngân sách nhà nước khi đã thực hiện đúng, đầy đủ nội dung, quy trình, quy định liên quan nhưng kết quả của nhiệm vụ, hoạt động không đạt được hoặc không được công nhận do chính sách của Nhà nước thay đổi hoặc do yếu tố khách quan, sự kiện bất khả kháng.

Có thể thấy, từ Nghị quyết 66 cho tới Nghị quyết 197 đã cho thấy quyết tâm chính trị rất lớn trong việc nâng tầm thể chế quốc gia của Đảng và Nhà nước ta. Đây là bước chuyển về tư duy làm luật từ “pháp luật theo sau quản lý” sang “pháp luật dẫn dắt quản lý”; từ xây dựng pháp luật thủ công, dàn trải sang mô hình chuyên nghiệp, bài bản và đạt chuẩn mực toàn cầu.

Bình luận:

Từ khóa: